Thứ Hai, 31 tháng 7, 2017
Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017
Thứ Sáu, 28 tháng 7, 2017
Thứ Năm, 27 tháng 7, 2017
Thứ Tư, 26 tháng 7, 2017
Thềm biển
Thềm biển là một bậc địa hình tương đối bằng phẳng, hoặc nghiêng thoải
về phía biển tạo ra do sóng vỗ mài mòn trong thời gian mực nước biển
dừng lại tương đối trong quá trình biển thoái hoặc biển tiến.
Bề rộng của thềm mài mòn tích tụ trên các cồn cát ven biển Miền Trung
Việt Nam vài km đến hàng chục km.
Thềm biển trong Đệ tứ phân bố trên đất liền và dưới đáy biển có sự tương
ứng theo tuổi và sắp sếp theo quy luật ngược chiều:
Trên đất liền thềm càng cao thì tuổi càng cổ.
Trên đáy biển thềm lục địa thềm biển càng sâu thì tuổi càng cổ.
Có sự chênh lệch đáng kể giữa độ cao và độ sâu thềm biển cùng tuổi là do
biên độ biển tiến – biển thoái và chuyển động kiến tạo.

Tiến hóa trầm tích
Vỏ Trái Đất liên tục biến đổi dưới tác động của chuyển động ngang (các
mảng và các terran) như những nguyên nhân sâu xa dẫn đến các chuyển động
thẳng đứng: nâng cao, tạo núi và sụt lún tạo các bồn trũng trầm tích.
Quá trình chuyển động vừa kiến lập nên các bình đồ kiến trúc bền vững
mới vừa phá huỷ các bình đồ cũ. Sự thay thế này xảy ra theo các chu kỳ
và tuân theo quy luật tiến hoá và có mối quan hệ chặt chẽ giữa bối cảnh
kiến tạo với thành phần trầm tích. Theo tiến trình đó tính chất hoá lý
của môi trường và điều kiện cổ khí hậu thay đổi đã ảnh hưởng lớn đến
toàn bộ chu trình phá huỷ, vận chuyển và lắng đọng trầm tích trên toàn
bộ hành tinh.
Nói cách khác sự tiến hoá của vỏ Trái Đất đã kéo theo sự tiến hoá của
môi trường, của các quyển liên quan như khí quyển, thuỷ quyển và sinh
quyển. Nghĩa là thế giới vô cơ và thế giới sinh vật đều biến đổi theo
chu kỳ hình xoáy ốc và giữa chúng dường như vừa có mối quan hệ nhân -
quả vừa có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời nhau.
Địa tầng dãy
Theo D. Emery và K.J. Myers, 1996 [1] địa tầng dãy là các đơn vị trầm
tích cộng sinh với nhau lấp đầy một bể, ranh giới giữa các đơn vị thường
trùng với mặt ranh giới hai tập trầm tích hoặc bề mặt gián đoạn trầm
tích, mỗi đơn vị trầm tích này gọi là một dãy (sequence).
Theo J.C. Van Wagoner, H.W. Posamentier, R.M. Mitchum, P.R. Vail, I.F.
Sarg, T.S. Lautit và J. Hardenbol: "Địa tầng dãy là mối quan hệ giữa các
đơn vị trầm tích có cùng nguồn gốc trong khung địa tầng được giới hạn
với nhau bởi bề mặt bào mòn hoặc gián đoạn trầm tích hoặc chỉnh hợp
tương đương".
Một đơn vị cơ bản của địa tầng dãy là một dãy (một Sequence). Giữa chúng
có ranh giới là các bề mặt bào mòn hoặc các bề mặt chỉnh hợp tương
đương.
Một dãy (Sequence) bao gồm 3 “Miền hệ thống trầm tích” (Systems tracts)
và 2 đơn vị địa tầng dãy nhỏ hơn. Miền hệ thống trầm tích là những vị
trí khác nhau trong mặt cắt tương ứng với một pha thay đổi mực nước biển
của một dãy và được cấu thành bởi các dãy phân (parasequences) và nhóm
phân dãy (paraseqences set). Phân dãy là đơn vị cơ bản nhỏ nhất tương
ứng với một đơn vị trầm tích cơ bản. Còn nhóm phân dãy là bao gồm hai
hay nhiều phân dãy tạo nên một tổ hợp cộng sinh các đơn vị trầm tích và
được giới hạn với nhau bởi ranh giới của các đơn vị trầm tích thường
trùng với các đơn vị tướng trầm tích.
Định nghĩa địa tầng dãy tiếp cận theo các dãy cộng sinh tướng có thể
được phát biểu một cách khác như sau:
"Địa tầng dãy là sự sắp xếp các dãy cộng sinh tướng theo thời gian và
theo không gian cấu thành những đơn vị địa tầng được giới hạn bởi các bề
mặt gián đoạn trầm tích do sự thay đổi mực nước biển chân tĩnh và
chuyển động kiến tạo".
Như vậy khái niệm địa tầng dãy muốn được hiểu một cách tường minh phải
nghiên cứu tướng trầm tích trong mối quan hệ với sự thay đổi mực nước
biển chân tĩnh và chuyển động kiến tạo và đặt trong khung địa tầng nhất
định. Nói khác đi nghiên cứu địa tầng dãy thực chất là nghiên cứu trầm
tích luận, trong đó phân tích cộng sinh tướng theo không gian và thời
gian là cơ sở quan trọng nhất. Tuy nhiên trong thực tế thường các nhà
địa vật lý lại đi tiên phong và tiếp cận chủ yếu trên cơ sở minh giải
các mặt cắt địa chấn theo các dấu hiệu trực giác hình học của các trường
sóng địa chấn hiện tại và đường cong Carota. Các tài liệu đó lại là bức
tranh hiện tại khác xa với bức tranh địa tầng dãy nguyên thủy. Vì vậy
rất đáng tiếc là các văn liệu xuất bản hiện nay thường sử dụng các mặt
cắt đã bị biến dạng đó để phân tích, nên một số các thông tin nhận được
là không đúng với môi trường trầm tích và vị trí thế nằm ban đầu của các
lớp đá trầm tích khi mới trải qua giai đoạn thành đá.
Những hoạt động địa chất làm biến dạng các thể trầm tích thứ cấp là:
- Hoạt động đứt gãy sau trầm tích là phá hủy các tầng trầm tích, làm
dịch chuyển các đơn vị địa tầng dãy theo phương thẳng đứng và phương nằm
ngang so với vị trí ban đầu. Trong mặt cắt địa chấn hiện tại, các đới
phá hủy được biểu thị bởi các trường sóng hỗn độn và thô, chiều rộng có
khi tới hàng trăm đến hàng nghìn mét cắt qua các lớp trầm tích. Đới phá
hủy này kết thúc ở tầng nào thì đứt gãy có tuổi trẻ hơn tuổi của tầng
trầm tích đó.
- Hoạt động nén ép và xiết ép ngang của chuyển động kiến tạo đã làm uốn
nếp và làm thay đổi thế nằm ban đầu của các lớp trầm tích.
- Hoạt động núi lửa bao gồm hoạt động phun trào và các xâm nhập nông đã
xuyên cắt các lớp đá trầm tích làm biến dạng và dịch chuyển thế nằm của
chúng so với trạng thái ban đầu.
- Quá trình ép trồi móng làm phá hủy các lớp đá trầm tích và chia cắt
các bể lớn thành các “mảnh nhỏ” như các địa hào và bán địa hào. Các
“mảnh” giả địa hào và giả bán địa hào này có cấu tạo oằn võng ở trung
tâm, còn hai rìa tiếp xúc với móng bị xiết ép, vát mỏng nên có trường
sóng hỗn độn dễ nhầm lẫn với cấu tạo kề áp (onlap) hoặc gá đáy
(downlap).
Kết quả của ba quá trình hoạt động trên đã làm thay đổi căn bản vị trí
không gian và thế nằm ban đầu của các lớp đá trầm tích trong bể thậm chí
mặt cắt địa chất – trầm tích hiện tại chỉ còn lưu giữ được các “di chỉ”
của bể trầm tích nguyên thủy dưới dạng các mảnh méo mó, sắp xếp lệch
lạc không có quy luật cộng sinh tướng và môi trường trầm tích. Điều đó
đã gây nên không ít khó khăn và phức tạp cho việc khôi phục bể thứ cấp
và phân tích địa tầng dãy. Đặc biệt trầm tích có tuổi từ Đệ tam trở về
trước hầu như đều bị biến đổi thế nằm, co rút thể tích và xáo trộn khuôn
viên của các bể thứ cấp rõ rệt hơn là trầm tích Đệ tứ. Vì vậy để minh
họa cho các mô hình địa tầng dãy ở các vị trí cơ bản: aluvi, châu thổ,
ven biển, biển nông, mép thềm lục địa, sườn lục địa, rìa bể, trung tâm
bể Kainozoi.... Cần phải chọn các mặt cắt địa chấn nông phân giải cao
của các trầm tích Đệ tứ để phân tích.
Trầm tích Đệ tứ trên các đồng bằng ven biển và biển nông ven bờ có thể
coi là “nguyên bản” của môi trường trầm tích và mặt cắt địa chấn nông
phân giải cao là bức ảnh sao chụp chân thực nhất. Đó là điều kiện cần và
được coi là 2 tiêu chí quan trọng để tiếp cận với địa tầng dãy.
Để nhận thức một cách rõ ràng hơn định nghĩa “địa tầng dãy” cần chú ý 3
nội dung cơ bản:
- Đơn vị trầm tích lấp đầy bể phải cộng sinh với nhau: Một đơn vị trầm
tích được hiểu là một thể trầm tích có hình dáng nhất định (có chế độ
thủy động lực, hóa lý môi trường, nguồn cung cấp vật liệu trầm tích và
chế độ kiến tạo nhất định). Các đơn vị trầm tích không nằm đơn độc riêng
biệt mà cộng sinh với nhau thành chuỗi. Vì vậy muốn xác định được đặc
tính cộng sinh và môi trường thành tạo các thể trầm tích cần thiết phải
phân tích tướng và phân tích cộng sinh tướng theo không gian (chiều
ngang) và thời gian (theo chiều thẳng đứng).
- Ranh giới giữa hai đơn vị trầm tích trùng với mặt ranh giới giữa hai
đơn vị tướng trầm tích và có ranh giới gián đoạn hoặc tiếp tục. Bề mặt
gián đoạn có thể là bề mặt bào mòn, xảy ra trong một thời gian dài hay
ngắn khi biển hạ thấp xuống chân mép thềm lục địa. Mặt bào mòn trải dài
từ môi trường lục địa đến đường bờ biển thấp nhất. Từ đường bờ trở ra
môi trường biển thống trị nên ranh giới các thể trầm tích có tính chất
chỉnh hợp về địa tầng, nhưng lớp dưới và lớp trên khác nhau về tướng và
độ hạt trầm tích.
- Các đơn vị trầm tích được thành tạo và xắp xếp thành từng dãy hoặc
từng lớp dày hay mỏng phụ thuộc vào 3 yếu tố:
+ Sụt lún kiến tạo, tức các đứt gãy đồng trầm tích (như một nguyên nhân
gián tiếp).
+ Sự thay đổi mực nước biển (như một nguyên nhân trực tiếp).
+ Khối lượng trầm tích mang tới nhiều hay ít.
Cùng một loại đá nhưng thuộc nhiều đơn vị địa tầng dãy khác nhau:
+ Cuội kết: và
+ Cát kết: , và
+ Sét kết: , và
Trong đó AA’, BB’ và CC’ là ranh giới của 3 đơn vị địa tầng dãy và cũng
là ranh giới các phức hệ trầm tích được lắng đọng trong 3 giai đoạn
khác nhau. Đây chính là 3 phức hệ tướng trầm tích khác nhau, xếp theo xu
thế biển thoái [H.1].
Trên hình 1 cho thấy ranh giới giữa các tập trầm tích là AA’, BB’ và CC’
chính là ranh giới địa tầng dãy. Trong mỗi tập trầm tích có sự chuyển
tướng từ đến , từ sang và , và từ sang và . Tính cộng sinh
tướng trong mặt cắt này là theo chiều ngang (không gian) chặt chẽ hơn
cộng sinh theo chiều thẳng đứng (thời gian).
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19376
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/19376
Địa chất đới bờ
Đới bờ là dải đất liền ven biển đã từng chịu quá trình tác động của biển
trong Holocen muộn (3000 năm đến nay) và phần ngập nước đến độ sâu
khoảng 20 m nước là giới hạn của trầm tích Holocen muộn lắng đọng.
Những dấu ấn của quá trình địa chất để lại trên không gian của đới bờ là
các cồn cát do gió, các vũng vịnh ven bờ, các bãi triều cát, bãi triều
lầy, rừng ngập mặn, các doi cát nối (tombolo), các đồng bằng châu thổ,
các tiền châu thổ, các vùng cửa sông châu thổ và cửa sông hình phễu
(estuary), các cồn chắn cửa sông, các thềm san hô và thềm biển cổ. Các
thành tạo địa chất kể trên liên quan chặt chẽ với 3 quá trình: sự thay
đổi mực nước biển, chuyển động kiến tạo và quá trình vận chuyển, lắng
đọng trầm tích dưới tác dụng của động lực sông, sóng và triều.
Đá sinh vật cháy
Đá sinh vật cháy là đá trầm tích nguồn gốc sinh vật, có thể đốt cháy
được. Nó là một loại đá đặc biệt, vì không phải là sản phẩm phá hủy của
một loại đá nào đó, cũng không phải phân ly từ dung dịch thật hay do sự
ngưng keo, mà là sản phẩm của sinh vật (bao gồm động vật và thực vật) đã
bị biến đổi thành vật chất hoàn toàn mới. Xuất phát từ đặc điểm đó.
M.S. Svetsov (1968) đã tách các loại đá cháy được thành một nhóm độc
lập, gọi là nhóm có nguồn gốc quang hợp. Bởi vì, sự phát triển của sinh
vật, đặc biệt là thực vật, cũng như trong giai đoạn đầu của sự thành tạo
các loại trầm tích này đều liên quan với nước, không khí và chịu sự tác
dụng của năng lượng Mặt Trời.
Thứ Ba, 25 tháng 7, 2017
Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2017
Thứ Sáu, 21 tháng 7, 2017
Thứ Năm, 20 tháng 7, 2017
Thứ Tư, 19 tháng 7, 2017
Thứ Ba, 18 tháng 7, 2017
Thứ Hai, 17 tháng 7, 2017
Thứ Năm, 13 tháng 7, 2017
Thứ Tư, 12 tháng 7, 2017
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)